1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
- Nữ giới chiếm tỷ lệ 65,0%, nam giới chiếm tỷ lệ 35,0%, tỷ lệ nữ/nam xấp xỉ 1,86/1.
- Độ tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 53,40 ± 13,11.
- Đối tượng nghiên cứu có 16,7% sống ở khu vực thành thị, 83,3% sống ở khu vực nông thôn.
- Nơi khám ban đầu của đối tượng nghiên cứu gồm 26,7% tại chuyên khoa tâm thần và 73,3% tại các chuyên khoa khác.
- Thời gian mắc rối loạn lo âu lan tỏa trung bình khoảng 3,7 năm, ở nhóm nam là gần 4,2 năm, nhóm nữ là gần 3,5 năm.
- Hầu hết khởi phát lo âu một cách từ từ với 91,7%, khởi phát lo âu đột ngột chiếm tỷ lệ 8,3%.
- Phần lớn đối tượng nghiên cứu có sang chấn tâm lý (63,3%). Sang chấn trường diễn chiếm tỷ lệ hơn một nửa (55,0%), chủ đề hay gặp nhất là Gia đình (36,7%), Tai nạn - bệnh tật (23,3%), Kinh tế (21,7%), Công việc, học tập (10,0%), ít gặp nhất là chủ đề sang chấn Xã hội (3,3%).
- Bệnh lí tâm thần kết hợp hay gặp nhất là trầm cảm (18,3%), tỷ lệ ở nữ là 20,5%, tỷ lệ ở nam là 14,3%.
- Tỷ lệ sử dụng thường xuyên chất gây nghiện chung là 15,0% với sử dụng thuốc lá, cà phê, 10,0% sử dụng bia rượu: ở nam giới gồm 33,3% sử dụng thuốc lá, 33,3% sử dụng cà phê, 19,0% sử dụng bia rượu; ở nữ giới sử dụng cả 3 loại chất thuốc lá, cà phê, bia rượu đều chiếm tỷ lệ ngang nhau (5,1%).
- Tổng điểm trung bình thang đánh giá lo âu Zung đối tượng nghiên cứu là gần 58, với độ lệch chuẩn 4,879. Tổng điểm ở nhóm nam là gần 57, ở nhóm nữ là hơn 58. Độ lệch chuẩn lần lượt ở giới nam, nữ xấp xỉ nhau (4,963 ở nam, 4,801 ở nữ).
- Mức độ lo âu chiếm tỷ lệ cao nhất là mức độ vừa với 63,3%, nhóm mức độ nhẹ chiếm tỷ lệ thấp nhất với 6,7%, nhóm mức độ nặng chiếm tỷ lệ 30,0%.
- 100% đối tượng nghiên cứu có triệu chứng Lo âu và Khó kiểm soát lo âu, các triệu chứng kèm theo có tỷ lệ ít hơn với Rối loạn giấc ngủ (91,7%), Mất thư giãn hoặc cảm giác kích động, bực bội (70,0%), Dễ bị mệt mỏi (60,0%), Khó tập trung chú ý hoặc đầu ốc trống rỗng (56,7%), Dễ cáu gắt (46,7%), Căng cứng cơ bắp (41,7%).
- Theo thang DASS-42 có 35,0% đối tượng nghiên cứu có biểu hiện triệu chứng trầm cảm và 21,7% có biểu hiện stress.
2. Hiệu quả điều trị rối loạn lo âu lan tỏa bằng liệu pháp tâm lý nhận thức – hành vi kết hợp thuốc hóa dược tại Bệnh viện Tâm thần tỉnh Quảng Ngãi
Kết quả nghiên cứu cho thấy ở Nhóm 1 (điều trị bằng liệu pháp tâm lý nhận thức - hành vi kết hợp thuốc hóa dược nhóm SSRI, kéo dài trong 24 tuần) và nhóm 2 (chỉ điều trị bằng thuốc hóa dược nhóm SSRI, kéo dài trong 24 tuần) đều có hiệu quả điều trị, nhìn chung đạt hiệu quả rõ ràng tại thời điểm đánh giá ở 12 tuần (T2) và 24 tuần điều trị (T3).
Khi so sánh hiệu quả điều trị giữa 2 nhóm nhìn chung hiệu quả ở nhóm 1 có phần cao hơn nhóm 2 được biểu thị qua sự khác biệt về một số nội dung đánh giá hiệu quả tại một số thời điểm đánh giá: - Thời điểm T2 (Chẩn đoán xác định theo DSM-5, triệu chứng Mất thư giãn, điểm cải thiện theo thang đánh gia lo âu Zung); - Thời điểm T3 (triệu chứng Lo âu, điểm cải thiện theo thang đánh gia lo âu Zung). Bên cạnh đó, một số nội dung đánh giá không có sự khác biệt qua các thời điểm đánh giá T1 đến T3 gồm các triệu chứng Khó kiểm soát lo âu, Dễ bị mệt mỏi, Khó tập trung chú ý, Dễ cáu gắt, Căng cứng cơ bắp, Rối loạn giấc ngủ, và mức độ lo âu theo thang đánh giá lo âu Zung.