1. Sự thay đổi dinh dưỡng người bệnh theo BMI, Albumin, tỉ lệ phần trăm mỡ cơ thể trước và sau phẫu thuật
- Tình trạng thiếu năng lượng trường diễn (BMI < 18,5) trước phẫu thuật là 23,3%, sau phẫu thuật là 28,3%
- Tỉ lệ người bệnh có Albumin < 35g/l là 26,7% trước phẫu thuật, sau phẫu thuật là 44,2%.
- Tỉ lệ người bệnh trước phẫu thuật suy dinh dưỡng theo phần trăm mỡ cơ thể là 49,1%, sau phẫu thuật tỉ lệ này tăng lên 52,5%.
- Tỉ lệ người bệnh giảm cân sau phẫu thuật là 81,6%. Phần lớn là giảm 2 – 5%, cân nặng giảm trung bình là 1,1 ± 0,8 kg.
2. Thực trạng nuôi dưỡng người bệnh trong 7 ngày sau phẫu thuật đường tiêu hóa
- Ngày thứ nhất, tất cả người bệnh được nuôi dưỡng đường tĩnh mạch hoàn toàn. Nuôi dưỡng đường tĩnh mạch hoàn toàn đến ngày thứ 7 chiếm 2,5%. Thời gian nuôi trung bình qua đường tĩnh mạch là 6,3 ± 1 ngày.
- Nuôi ăn đường tiêu hóa sớm nhất là ngày thứ 2. Thời gian bắt đầu nuôi ăn qua đường tiêu hóa 4,5 ± 1 ngày; Thời gian nuôi trung bình qua đường tiêu hóa là 3,6 ± 1 ngày. Thời gian bắt đầu nuôi ăn và thời gian nuôi trung bình qua đường tiêu hóa không khác nhau giữa các vị trí phẫu thuật.
- Đến ngày thứ 7, có 64,2% người bệnh sau phẫu thuật được nuôi dưỡng kết hợp giữa truyền tĩnh mạch với đường tiêu hóa, 33,3% người bệnh nuôi ăn đường tiêu hóa hoàn toàn.
- Ngày thứ nhất người bệnh được nuôi dưỡng hoàn toàn qua đường truyền tĩnh mạch và năng lượng trung bình 533,8 Kcal. Những ngày tiếp theo, tổng năng lượng chỉ đạt 50-60% so với nhu cầu khuyến nghị. Cao nhất chỉ đạt 21 Kcal/kg (Khuyến nghị 35-40Kcal/kg).